Máy đo tọa độ 3D CMM có lích sử lâu dài. Trải qua hơn 60 năm nghiên cứu và phát triển. Đến nay máy đo tọa độ đã phát triển toàn diên. Máy đo tọa độ 3D CMM đã qua các thế hệ sau:
Thế hệ thứ nhất:
Máy đo tọa độ đầu tiên trên thế giới được phát triển thành công bởi công ty FERRANTI của Anh vào năm 1959.
Vào thời điểm đó, phương pháp đo là sau khi đầu dò chạm vào phôi, giá trị tọa độ hiện tại được ghi lại bằng bàn đạp chân.
Sau đó là máy tính đã được sử dụng để tính toán phần tử. Mối quan hệ giữa các vị trí. Năm 1964, công ty SIP của Thụy Sĩ bắt đầu sử dụng phần mềm để tính toán khoảng cách giữa hai điểm.
Kỷ nguyên sử dụng phần mềm để tính toán số liệu đo lường được bắt đầu.
Đầu những năm 1970, công ty ZEISS của Đức đã sử dụng hệ tọa độ phôi do máy tính hỗ trợ để thay thế cho việc căn chỉnh cơ khí. Từ đó máy đo có chức năng phát hiện dung sai kích thước và hình dạng của các yếu tố hình học cơ bản của phôi.
Thế hệ thứ hai:
Với sự phát triển nhanh chóng của máy tính. Công nghệ máy đo bước vào kỷ nguyên máy điều khiển CNC đã hoàn thành việc đo các chi tiết cơ khí phức tạp.
Phép đo các bề mặt cong dạng tự do trong không gian, chế độ đo đã được tăng lên và chức năng tự học đã được cải thiện.
Giao diện, sử dụng ngôn ngữ đo lường đặc biệt, cải thiện hiệu quả phát triển của các chương trình đo lường.
Thế hệ thứ ba:
Kể từ những năm 1990, với sự phát triển của hội nhập. tính linh hoạt và thông tin hóa trong ngành sản xuất công nghiệp. thiết kế, sản xuất và thử nghiệm sản phẩm có xu hướng được tích hợp.
Điều này đã tạo ra nhiều thay đổi hơn cho máy đo tọa độ như thử nghiệm. thiết bị. Yêu cầu cao, do đó đề xuất khái niệm máy đo thế hệ thứ ba. Các đặc điểm của nó là:
- Nó có chức năng giao tiếp với thiết bị bên ngoài;
- Nó có định dạng giao thức dữ liệu tiêu chuẩn để đối thoại trực tiếp với hệ thống CAD;
- Mạch phần cứng có xu hướng được tích hợp và ở dạng máy tính thẻ mở rộng, nó đã trở thành một máy tính lớn bên ngoài.